Cuối tuần qua, tôi được dịp nói chuyện với vài người bạn Công Giáo về Giáo Lý Tính Dục, và từ đó tạo ngẫu hứng cho tôi đọc lại Thông Điệp Sự Sống Con Người (Humanae Vitae) của cố Đức Thánh Cha Phaolô VI về việc điều hòa sinh sản, và Thần Học Về Thân Xác (Theology of the Body) của cố Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II. Tôi so sánh kho Thần Học Thân Xác như là bộ Kama Sutra của người Công Giáo, nhưng kho tàng khổng lồ này chắc phải dành một dịp khác để chiêm niệm thêm. Tối nay tôi muốn suy ngẫm một chút về việc điều hòa sinh sản, mà ngôn ngữ của thế tục gọi là “ngừa thai”.
Giáo Lý Công Giáo điều 2370 (GLCG 2370) gọi ngừa thai, trên bản chất, là một điều ác (từ ngữ tiếng Anh gọi là “intrinsically evil”):
2370 Tiết dục định kỳ cũng như những phương pháp điều hòa sinh sản đặt nền tảng trên việc tự quan sát và sử dụng những thời gian không thể thụ thai (x. HV 16), đều phù hợp với các tiêu chuẩn khách quan của luân lý. Những phương pháp này tôn trọng thân thể của vợ chồng, khuyến khích họ âu yếm và giúp nhau hướng đến tự do chân chính. Ngược lại, "mọi hành động nhằm mục đích hay tạo phương thế ngăn cản sự truyền sinh trước, hoặc trong khi giao hợp, hoặc trong diễn tiến các hiệu quả tự nhiên của việc giao hợp, tự bản chất là xấu" (HV 14).
Humanae Vitae 16:
16. Như Ta trình bày trong đoạn 3 trên đây, hiện nay người ta chống đối lại lời giáo huấn của Giáo hội về nền luân lý hôn nhân, chủ trương rằng con người có quyền dùng tri thức của mình để quản trị và điều khiển các năng lực nằm trong thiên nhiên vô tri để mưu ích cho toàn thể nhân loại. Người ta đặt câu hỏi: nếu có thể, trong một vài trường hợp, sử dụng phương pháp nhân tạo để kiểm soát việc sinh sản hầu đem lại hòa đồng êm ấm cho gia đình và giúp cho việc giáo dục con cái (đã sinh ra rồi) được dễ dàng tốt đẹp hơn, thì tại sao lại không sử dụng?
Ta cần phải trả lời một cách minh xác rằng: Giáo hội sẵn sàng chấp nhận, tán thưởng việc dùng tri thức trong một lãnh vực, mọi công tác Thiên Chúa cùng hoạt động với tạo vật tri thức, nhưng Giáo hội khẳng định rằng: trong trường hợp này, phải tôn trọng nền trật tự được Thiên Chúa thiết lập.
Vì thế, nếu có những hoàn cảnh, những lý do thể lý, tâm lý, hoặc ngoại cảnh đòi hỏi vợ chồng phải hạn chế bớt việc sinh con, thì trong trường hợp đó, Giáo hội cho biết có thể căn cứ vào các chu kỳ tự nhiên, cố hữu của cơ năng sinh sản để làm hành vi hôn nhân trong những thời gian không đậu thai, và chỉ có phương pháp điều tiết sinh sản ấy mới không đi ngược lại những nguyên tắc luân lý căn bản mà Ta vừa nhắc nhở trên đây.
Giáo hội không mâu thuẫn khi chủ trương rằng: người ta được áp dụng phương pháp các thời gian không đậu thai, đồng thời lên án việc sử dụng những phương pháp trực tiếp gây trở ngại cho việc sinh sản, dù với những lý do có vẻ đứng đắn, lương thiện. Quả vậy, hai sự việc trên đây hoàn toàn khác biệt nhau; trong trường hợp thứ nhất, đôi bạn sử dụng một cách hợp pháp những dữ kiện tự nhiên, còn trong trường hợp thứ hai, họ cản trở một diễn biến của thiên nhiên. Tuy trong cả hai trường hợp, hai người phối ngẫu đều tích cực, đồng ý với nhau tìm cách tránh không cho có con vì những lý do thoả đáng, nhưng đặc biệt trong trường hợp trước, hai người tự kiềm chế, không sử dụng quyền hạn của hôn phối trong những thời gian có thể đậu thai vì những nguyên do hợp lý, và sử dụng quyền hạn đó trong thời gian không thể có con để biểu lộ tình thương nhau và bảo vệ lòng chung thuỷ với nhau. Trong hành động này, hai người đã chứng tỏ một tình yêu hoàn toàn và thực sự lương thiện.
Tại sao ngừa thai là một việc ác? Bởi vì: cũng như hôn nhân nam nữ là dấu chỉ cho hôn nhân giữa Chúa Kitô và Giáo Hội, tương tự như vậy, quan hệ tình dục giữa cặp vợ chồng là dấu chỉ cho Bí Tích Thánh Thể. Khi tôi đi rước lễ, Thánh Thể của Chúa Kitô hòa nhập vào thân thể của tôi, và trong giây phúc mầu nhiệm ấy “cả hai đã biến thành một xương một thịt”. Cho nên,
"Hôn phối và tình yêu trong hôn nhân, tự bản chất nó, được hướng về việc sinh sản và nuôi dưỡng con cái. Trên thực tế, con cái là ân huệ tối thượng của hôn nhân và mưu ích rất nhiều cho chính cha mẹ chúng" (Công đồng Vatican II, Hiến chế Mục vụ "Niềm Vui Và Hy Vọng" - Gaudium et Spes, số 50).
Và, cũng như việc tôi rước Thánh Thể vào mình, rồi lại từ chối ơn thánh hóa mà Thánh Thể có thể tác động trong trong bản thân tôi, tương tự như vậy, với hành động cản trở sự kết tinh từ quan hệ tình dục, tôi nói lên rằng: tôi không muốn nhận cái ân huệ tối thượng mà Thiên Chúa muốn ban cho tôi kia. Từ sự khước từ đó, khá dễ hiểu khi Đức Phaolô VI, vào thời điểm của năm 1968, 8 năm sau khi viên thuốc ngừa thai đã được tung ra thị trường Hoa Kỳ, đã đưa ra 4 tiên đoán về hệ quả của việc ngừa thai:
- Gia tăng của sự bội tín trong hôn nhân cũng như sự tụt dốc của luân lý tính dục,
- Sự thiếu tôn trọng phụ nữ, biến phụ nữ thành dụng cụ thỏa mãn dục tính ích kỷ cho đàn ông,
- Các chính quyền sẽ ép buộc dân chúng phải áp dụng những phương pháp ngừa thai để tránh né những khó khăn cá nhân, gia đình, hoặc xã hội,
- con người sẽ chơi “trò chơi thượng đế”.
Khi tôi cưỡng lại Thánh ý Chúa, thì đó là “tội lỗi”. Nhớ lại lời của Cha John Riccardo: Chúa ghét tội lỗi của tôi chính bởi vì chúng gây tổn hại cho bản thân tôi. Và vì tôn trọng quyền tự do của tôi, Chúa bất lực khi tôi đang phạm tội. Và Ngài khóc. Ngài không làm được gì khác ngoài việc khóc, và khóc đến đổ mồ hôi máu…trong vườn Giệt-si-ma-ni.